Tăng thông khí là gì? Tăng thông khí (Hyperventilation) là một căn bệnh, do nhiều yếu tố trong đó có hai yếu tố chính là sự không cân bằng về lượng O2 và CO2 trong máu, mà tỷ lệ CO2 trong máu lại là nguyên nhân chính làm cho bệnh nhân thở nhanh, thở gấp. Hiện tượng này đôi khi bị lầm tưởng là bệnh hen xuyễn.
Tăng thông khí trong lặn tự do: người ta áp dụng những tác dụng của hiện tượng thở gấp để nhằm hai mục đích: khôi phục thể lực sau khi lặn và kéo dài thời gian nhịn thở dưới nước. Người ta có thể chia ra làm hai kỹ thuật khác nhau với hai mục đích khác nhau.
Thứ nhất: thở sâu, chậm và đều sau khi nổi lên mặt nước để khôi phục thể lực sau khi lặn, khi thực hiện kỹ thuật này lượng O2 được đưa vào cơ thể được đồng hoá tối đa, đồng thời lượng CO2 cũng được thải ra một cách tốt nhất, tỷ lệ CO2 và O2 nhanh tróng trở lại vị trí cân bằng – cơ thể ở tình trạng phục hồi tốt nhất, đây có thể gọi là kỹ thuật tăng thông khí trong lặn tự do. Là một kỹ thuật rất tốt và có lợi cho cơ thể, tôi khuyến khích các bạn sử dụng kỹ thuật này.
Thứ hai : có thể gọi là kỹ thuật giảm thông khí, ở kỹ thuật này người ta cũng thở sâu nhưng không chậm mà nhanh hết sức có thể, khi bạn thở nhanh nhiều lần như vậy bạn có thể cảm thấy chóng mặt, nóng sau gáy hoặc ngứa ran lòng bàn chân hay bàn tay. Thực hiện kỹ thuật này ngay khi lặn xuống bạn có thể kéo dài thời gian nhịn thở dưới nước lên đáng kể, tuy nhiên thực hiện kỹ thuật này rất nguy hiểm khi lặn tự do, mặc dù vậy hầu như tuyệt đại đa số dân lặn tự do vẫn thực hiện, vẫn truyền kinh nghiệm này cho nhau.
Trong khuôn khổ bài viết này tôi xin có một số phân tích về việc áp dụng kỹ thuật giảm thông khí, các bạn có thể tham khảo, cảnh giác và đưa ra lựa chọn của mình xem có nên áp dụng hay không, áp dụng trong trường hợp nào, ở mức độ nào và với những điều kiện gì. Trước hết tôi xin giải thích một chút về cơ chế thúc đẩy người ta muốn hít thở, có hai yếu tố chính ảnh hưởng đến phản ứng hít thở của cơ thể: Tỷ lệ O2 trong máu, khi lượng O2 trong máu giảm đi do quá trình đồng hoá khi trao đổi chất. Thông qua quá trình phân tích và điều khiển của hệ thần kinh, cơ thể sẽ có phản ứng hít thở. Nếu lượng O2 quá thấp (mỗi người có một ngưỡng khác nhau) bạn có thể bị ngất nếu không kịp hít thở. Tỷ lệ CO2 trong máu, có nhiều nghiên cứu cho rằng tỷ lệ CO2 trong máu mới là động cơ chính gây nên phản ứng thở của cơ thể, khi tỷ lệ CO2 trong máu tăng lên đến một ngưỡng nào đó, hệ thống thần kinh sẽ liên tục thúc dục cơ hoành và cơ liên xườn tạo nên phản ứng thở của cơ thể. Nếu tỷ lệ CO2 vượt qua ngưỡng, hệ thống thần kinh có thể cưỡng ép gây ra co rút cơ hoành và cơ liên sườn, nhịn thở đó là sự kìm chế phản ứng này của cơ thể. Cơ chế có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau: Khi thực hiện nhịn thở, lượng oxy trong máu sẽ từ từ giảm xuống, lượng CO2 tăng lên do quá trình trao đổi chất diễn ra trong cơ thể và do không khí chúng ta hít vào không được bổ xung và đổi mới. Đến một ngưỡng nào đó của CO2 cơ thể sẽ có phản ứng cưỡng ép thở như co rút cơ hoành và cơ liên xườn. Những thợ lặn lâu năm hoặc những người có luyện tập có khả năng áp chế kéo dài thời gian xảy ra phản ứng này của cơ thể để kéo dài thời gian nhịn thở, nhưng kéo dài được bao lâu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ví dụ như: vào thể trạng của mỗi người, vào tình hình sức khoẻ lúc đó, vào môi trường xung quanh, v.v. Đến một ngưỡng nào đó cơ thể sẽ chuyển sang tình trạng mất ý thức, đó là hiện tượng ngất do thiếu oxy, đó cũng là một phản ứng tự vệ của cơ thể để giảm thiểu tới mức thấp nhất nhu cầu về oxy cho cơ thể. Tuy nhiên nếu bị ngất trong khi lặn là một tai nạn gần như 100% dẫn đến tử vong, bởi vì khi bạn mất ý thức phản ứng tự nhiên của cơ thể sẽ là hít thở thật sâu, thay là không khí bạn sẽ hít nước vào phổi, thường thì não sẽ chết (khoảng 2 phút) trước khi bạn chết đuối (khoảng 6 phút). Trong điều kiện bình thường ngưỡng của CO2 thường đến trước, cơ thể sẽ thúc đẩy phải thở và bạn sẽ phải nổi lên mặt nước để thở, bạn sẽ không rơi vào tình trạng bị ngất dưới nước (syncope – shallow water blackout). Nhưng nếu bạn thực hiện kỹ thuật giảm thông khí thì cơ chế có thể sẽ bị thay đổi. Khi bạn hít vào thở ra thật nhanh trước khi nín thở, lượng không khí thông qua phổi với khối lượng tăng lên (chủ yếu là do tần suất tăng lên). Tuy nhiên lượng oxy trong máu thực sự không tăng lên bao nhiêu do ở điều kiện bình thường tỷ lệ O2 thường đạt 95% đến 97% tỷ lệ bão hoà vì vậy cho dù bạn có hít thêm bao nhiêu không khí đi nữa cũng vô ích. Ngược lại: lượng CO2 lại giảm đi đáng kể, bạn càng hít thở nhanh lượng CO2 trong máu càng giảm. Trong quá trình giảm thông khí, áp suất một phần của CO2 trong phổi sẽ giảm xuống dưới giá trị thông thường (khoảng 0,05 bar). Do đó lượng CO2 dự trữ trong cơ thể sẽ giảm xuống dưới giá trị trao đổi chất. Khi bình thường sự trao đổi chất giữa CO2 và O2 sẽ duy trì ở trạng thái cân bằng, độ PH của máu sẽ ở trạng thái trung tính khoảng 7,4 (cái thông số này anh cũng không hiểu lắm). CO2 trong máu càng nhiều, máu sẽ có tính axit, khi CO2 giảm dẫn đến máu sẽ nhiễm kiềm. Thời gian giảm thông khí cáng dài (hít thở nhanh nhiều) thì CO2 càng giảm sâu, máu nhiễm kiềm sẽ gây ra chóng mặt, ngứa ran hoặc một số khó chịu khác. Chúng phá vỡ sự trao đổi chất giữa CO2 và O2 gây ra hiệu ứng thần kinh và vận mạch. Một nguy hiểm lớn hơn khi bạn áp dụng kỹ thuật giảm thông khí trước khi lặn là: lượng CO2 trong máu giảm sẽ làm thời gian đạt đến ngưỡng CO2 (ngưỡng cơ thể thôi thúc bạn phải thở) – bạn có thể nhịn thở được lâu hơn. Đôi khi ngưỡng thiếu oxy trong máu đến trước ngưỡng CO2, bạn có thể bị ngất dưới nước. Bạn có thể tham khảo sơ đồ minh hoạ như sau:

Giải thích sơ đồ
Với tình trạng không thực hiện giảm thông khí: ngưỡng muốn hít thở (do CO2 đạt đến một giá trị nhất định) đến trước ngưỡng thiếu oxy, bạn sẽ phải bạn sẽ phải nổi lên thở trước khi bạn thiếu oxy.
Với tình trạng thực hiện giảm thông khí :
“1” – Do bạn thực hiện kỹ thuật giảm thông khí, lượng CO2 trong máu trước khi lặn sẽ thấp hơn so với khi không thực hiện kỹ thuật giảm thông khí.
“2” – Ngưỡng muốn thở chưa đến mặc dù đã đến ngưỡng thiếu oxy.
“3” – Vượt qua ngưỡng thiếu oxy (bạn có thể bị ngất) mặc dù ngưỡng muốn thở vẫn chưa tới.
Áp dụng kỹ thuật giảm thông khí
Từ nhận định về mối nguy hiểm này tôi xin đề nghị các bạn không nên sử dụng kỹ thuật giảm thông khí khi lặn. Tuy nhiên dù tôi có đề nghị chắc chắn các bạn vẫn sử dụng và tôi cũng vậy. Vì vậy để giảm rủ ro khi áp dụng kỹ thuật giảm thông khí tôi xin có một số đề nghị sau:
– Sử dụng trong luyện tập: bạn có thể sử dụng kỹ thuật giảm thông khí cả trong luyện tập nhịn thở tĩnh (ngồi thiền) hoặc động (khi lặn). Khi luyện tập nhịn thở tĩnh, bạn sẽ đỡ rủi ro hơn do bạn có thể sớm hít vào nếu bạn cảm thấy không ổn, hoặc nếu có bị ngất cơ thể của bạn cũng phản ứng bằng cách hít vào. Khi áp dụng kỹ thuật giảm thông khí lúc ngồi thiền bạn có thể rèn luyện khả năng tự điều chỉnh (xem thêm bài: Làm thế nào để lặn được lâu), kéo dài thời gian nhịn thở, rèn luyện cho cơ thể tăng dần khả năng chịu đựng thiếu oxy, rèn luyện khả năng áp chế được phản xạ của cơ thể và quan trọng nhất là trong khi ngồi thiền bạn phải cảm nhận được các phản ứng của cơ thể khi sắp tới tình trạng thiếu oxy. Các phản ứng này mỗi người mỗi khác, với mỗi người qua từng thời gian và từng hoàn cảnh cũng khác nhau thường là rất khó thấy nhưng không phải là không thể thấy. Những cảm nhận này luôn luôn là những tín hiệu báo trước nguy hiểm, cảm nhận được đôi khi có thể cứu tính mạng của bạn. Bạn có thể tìm được một cách tương đối thời gian nhịn thở tới hạn của bạn, nếu muốn phá vỡ tới hạn đó phải từ từ và hết sức thận trọng. Ví dụ bạn đã đạt được thời gian nhịn thở tới hạn là 2 phút, nếu bạn muốn nhịn thở vượt qua 2 phút thì nên để đồng hồ bấm giây trước mặt và chỉ nên vượt qua 10 giây đến 20 giây thôi, không nên một lúc vượt qua quá nhiều (chú ý đến tình trạng sức khoẻ của bạn khi luyện tập nhé – nếu gặp hôm không khoẻ thì đừng có vượt cực hạn). Đừng có học mấy tiểu thuyết kviếm hiệp nào là “phá rồi lại lập”, “vượt qua cực hạn”, “lượng đổi thì chất đổi”, v.v. Hãy nhớ rằng chúng ta đang chơi thể thao chứ không phải đang phá vỡ kỷ lục.
– Sử dụng khi luyện tập động (khi lặn) bạn cũng có kết quả như luyện tập tĩnh : rèn luyện khả năng tự điều chỉnh, v.v. Nhưng kết quả nhịn thở của bạn thường rất thấp so với nhịn thở lúc thiền. Chú ý rằng khi luyện tập càng phải cẩn thận vì nếu bạn bị ngất bạn rất dễ mất mạng dù là bạn tập nhịn thở trong bồn tắm, nhất là khi bạn vượt qua cực hạn của mình. Nên có đồng hồ lặn để cài đặt chế độ cảnh báo (xem thêm : Đồng hồ lặn mares) để biết cực hạn của mình và kịp thời trở lên mặt nước. Và rất cần thiết nữa đó là luôn luôn có một người bạn mà bạn có thể tin tưởng được, quan sát theo dõi bạn luyện tập và có thể trợ giúp bạn khi cần thiết.
– Sử dụng khi lặn tự do : áp dụng kỹ thuật giảm thông số khi lặn bạn phải có một đồng đội hết sức tin cậy, bạn hiểu rõ khả năng của anh ta và ngược lại, hai người phải hết sức ăn ý với nhau. Tuy nhiên điều này không phải dễ vì hầu hết dân lặn bắn cá đều là những “con sói đơn độc”. Trong trường hợp đi một mình : tuyệt đối không vượt qua cực hạn nếu áp dụng kỹ thuật giảm thông khí, nên có sự trợ giúp của đồng hồ lặn để có cảnh báo, thời gian cảnh báo cũng không nên điều chỉnh quá sát vì bạn còn phải có thời gian trở lên mặt nước. Nếu không có đồng hồ lặn nên luyện thói quen đếm nhẩm để tính thời gian, đếm cũng là một phương pháp tự điều chỉnh, thực hiện nghiêm ngặt thời gian nghỉ trên mặt nước, ít nhất là 1:2 (tức là lặn một phút thì nghỉ 2 phút), đồng hồ lặn mares có hệ số điều chỉnh từ 1 đến 7 để cảnh báo thời gian nghỉ trên mặt nước (xem thêm : Đồng hồ lặn mares).
– Tuyệt đối không áp dụng kỹ thuật giảm thông khí nếu : sức khoẻ của bạn không ở trạng thái tốt nhất như mới khỏi bệnh, mới đi lặn bằng thiết bị hỗ trợ thở dưới nước, mới vận động mạnh xong, uống rượu bia hoặc dùng chất kích thích v.v. Nên đeo thắt lưng chì loại dễ tháo nhất, phản ứng đầu tiên bạn nên làm khi phát hiện ra tín hiệu nguy hiểm đó là cởi ngay thắt lưng chì ra, với sức nổi của bộ đồ lặn có thể đưa bạn lên mặt nước mặc dù bạn không cử động được nữa. Nên có phao báo hiệu (chú ý phao báo hiệu không nên buộc vào thắt lưng chì dễ tháo) để đồng đội có thể tìm ra bạn nếu nước quá đục hoặc dòng chảy cuốn bạn đi. Khi nổi lên không nên cố ngửa mặt nhìn lên mặt nước, động tác ngửa mặt và sự xiết vào của bộ đồ lặn sẽ làm nghẹt động mạch chủ giảm lượng máu đưa lên não.
Viết bình luận